“Quyền năng ABCD” và xu hướng dịch chuyển công nghệ

Sức mạnh của ABCD

Năm 2014, tỷ phú Bill Gates từng ước tính giá trị của trí thông minh nhân tạo (A.I) và máy học (Machine Learning) sẽ lớn gấp 10 lần công ty Microsoft của ông. Nhưng các chuyên gia cho rằng giá trị hiện nay đã lớn hơn rất nhiều so với những gì người sáng lập Microsoft dự đoán. Theo ông David Lang, Cố vấn cao cấp của YellowBlocks, đến năm 2020, sẽ có 40 Zettabyte dữ liệu được sinh ra, tương đương 75 lần số lượng cát phủ trên Trái đất. Động lực tăng trưởng kinh doanh của doanh nghiệp đang ở trong đống cát này. Vấn đề là làm sao doanh nghiệp có thể nắm bắt được nó.

“Quyền năng ABCD” nói đơn giản là những dữ liệu doanh nghiệp có được, phải được lưu trữ như thế nào để có thể truy xuất mọi nơi và đủ thông minh cũng như độ tin tưởng để đưa ra bức tranh chân thực nhất về những khách hàng tương lai của họ, hoặc đem lại công suất xử lý đủ để tạo ra sự khác biệt trên thị trường. 

Các doanh nghiệp lớn trên thế giới đã làm rất tốt điều này. Điển hình như nhà mạng AT&T (Mỹ), nhờ vào A.I và khả năng học máy, bộ phận cảnh báo lỗ hổng của Công ty có thể phân tích 5 tỷ hoạt động bảo mật trong 10 phút. Chưa dừng lại ở đó, để cải thiện việc chăm sóc khách hàng, AT&T đã đưa A.I vào Charlie, hệ thống trả lời tự động theo ngữ cảnh. Kết quả thu về khá khả quan với Charlie khi đã tiết kiệm được 48% chi phí hỗ trợ khách hàng, tăng tốc độ giải quyết lên 53% cùng khả năng xử lý hơn 30.000 email mỗi tháng để tiếp cận khách hàng mới. Chỉ trong 6 tháng đưa Charlie vào sử dụng, doanh thu của AT&T đã tăng lên 15%.

Đối với ngân hàng, bảo vệ dữ liệu khách hàng là điều tối quan trọng. Shinhan, một trong những ngân hàng lâu đời nhất và lớn nhất ở Hàn Quốc, đã phát triển một hệ thống dựa trên công nghệ Blockchain để tăng cường bảo mật thông tin cá nhân cho khách hàng. 

Hay như IBM đã đưa hệ thống Trust Your Supplier (TYS) được xây dựng bằng công nghệ Blockchain vào hoạt động nhằm giảm nguy cơ lừa đảo và sai sót trong quá trình sản xuất. Hiện tại, IBM có hơn 18.500 nhà cung cấp trên toàn thế giới và họ dự đoán sẽ giảm 70-80% thời gian với các nhà cung cấp mới, giảm 50% chi phí hành chính trong hoạt động kinh doanh của họ.

Những đột phá công nghệ không còn trong phim ảnh mà đang trở nên gần gũi hơn bao giờ hết. Được biết trong năm 2018, đã có 171 triệu người sử dụng dùng công nghệ thực tế ảo để mua hàng, 15 triệu lượt sử dụng mỗi ngày tính năng chuyển từ màn hình sang văn bản của YouTube (năm 2017). Ngay cả việc chăm sóc sức khỏe, những vị bác sĩ cũng đang bị các thiết bị kỹ thuật số lấn át vai trò khi chúng có thể sử dụng dữ liệu lập được bản đồ theo dõi sức khỏe trọn đời cho chủ nhân của chúng. Ước tính có 98 triệu thiết bị chăm sóc sức khỏe đeo tay sẽ được tiêu thụ vào năm 2021.

“Quyền năng ABCD sẽ càng trở nên hữu dụng đối với doanh nghiệp trong giai đoạn 2020-2025 nhờ sự xuất hiện của công nghệ 5G”. Theo đó, 5G sẽ đẩy nhanh sự phát triển của thành phố thông minh, nhà thông minh và xe thông minh. Điều này sẽ phát sinh thêm rất nhiều dữ liệu liên quan đến khách hàng. Những doanh nghiệp nào chậm chân trong việc sử dụng dữ liệu phân tích khách hàng sẽ mất đi lợi thế trong cuộc chiến sắp tới.
► Xem thêm: Trí tuệ nhân tạo – Đồng hành cùng mối đe dọa

“Những kẻ phá bĩnh”

Cuộc chiến dữ liệu và công nghệ đã hình thành những doanh nghiệp nhỏ nhưng có khả năng đe dọa những doanh nghiệp khổng lồ. Những thương vụ gọi vốn nửa đầu năm 2019 đã gia tăng gấp 6 lần thời điểm năm 2017. Số tiền này sẽ dùng vào việc phát triển các ứng dụng thanh toán, hạ tầng giao nhận và công nghệ di động. Cũng lưu ý thêm, những công ty khởi nghiệp là nhóm sở hữu phần lớn các lợi thế của ABCD nhờ vào lợi thế là các công ty công nghệ. Những startup này được gọi là “những kẻ phá bĩnh” bằng công nghệ, trong đó thể hiện rõ sức mạnh của ABCD. Họ đang tạo áp lực mạnh mẽ lên các công ty đối thủ theo mô hình truyền thống, như câu chuyện của Grab và Vinasun hay nhóm khách sạn truyền thống đang đối mặt với sự xâm lấn của các công ty ứng dụng công nghệ trong việc quản lý khách sạn như OYO, RedDoorz…

Chẳng hạn, chỉ sau thời gian ngắn xuất hiện, Logivan hiện đã có mạng lưới lên đến hơn 30.000 đối tác vận tải và hàng trăm đơn hàng đăng tải mỗi ngày. Bà Phạm Khánh Linh, CEO của Logivan, giải thích: “Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong Logivan là giúp cho các xe tải chở hàng kết nối với nhau hiệu quả hơn, giá phải chăng”. Hiện tại, Logivan đang thu thập được rất nhiều dữ liệu về chuỗi cung ứng, ví dụ như xe đi từ đâu tới đâu, đi bao nhiêu chuyến mỗi tháng, cũng như khách hàng, chủ hàng nào trả tiền muộn… Về phía chủ xe, Công ty đang thu thập dữ liệu xem xe đi lại có sẵn hay không, kỹ năng lái xe như thế nào…, thậm chí còn thu thập dữ liệu trong tương lai là tuổi thọ xe, loại lốp gì, cần loại GPS gì. Đây là những dữ liệu hữu ích giúp doanh nghiệp dự báo chính xác nhu cầu của chủ xe cũng như khách hàng.

“Sự phát triển của các fintech là xu hướng tất yếu trong nền kinh tế số và fintech sẽ có rất nhiều cơ hội để mở rộng tại Việt Nam”, ông Huy nhận định. Thực tế, thị trường công nghệ tài chính ở Việt Nam hiện vô cùng sôi động khi bắt nhịp được trào lưu 4.0 và sự thay đổi công nghệ toàn cầu. Một số mô hình về cổng thanh toán điện tử, ví điện tử đang phát triển mạnh như Moca, MoMo, OnePAY… Cùng với các startup như Finhay, những Fintech “phá bĩnh” này sẽ thay thế và bổ sung dần cho ngành tư vấn, đầu tư tài chính truyền thống trong tương lai. Điều này sẽ dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hình, bởi một lượng lớn tiền của nhà đầu tư sẽ chuyển sang các kênh tự động.

Ông Phạm Thanh Đức, CEO MoMo, chia sẻ về khó khăn khi ứng dụng AI vào ví điện tử MoMo của mình: “MoMo đang xây dựng nền tảng A.I, tức là chưa làm gì A.I cả mà chỉ mới xây dựng những thứ rất cơ bản, như đang tuyển người và xây dựng nền tảng. Khoa học dữ liệu là lĩnh vực hoàn toàn mới ở Việt Nam, rất khó tuyển dụng. Vì vậy, MoMo phải sang Thung lũng Silicon để tuyển trong 2 năm qua”.
►Xem thêm: Ứng dụng Blockchain trong kinh doanh

Bước khởi đầu của Việt Nam

Khó khăn của các doanh nghiệp công nghệ Việt Nam khi ứng dụng “quyền năng của ABCD” cũng là khó khăn của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng chiến lược quốc gia về cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó có các chính sách phát triển kinh tế số. Ngoài ra, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đang xây dựng Đề án quốc gia về chuyển đổi số, đề xuất các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để chuyển đổi số nền kinh tế, xã hội, chuyển đổi số cơ quan nhà nước và một số ngành trọng điểm.

Nghiên cứu của Google và Temasek (Singapore) nhận định, kinh tế số của Việt Nam đạt 3 tỷ USD năm 2015, tăng lên 9 tỷ USD năm 2018 và dự báo đạt 30 tỷ USD vào năm 2025. Một nghiên cứu khác của Tổ chức Data 61 (Úc) cũng khẳng định, GDP Việt Nam có thể tăng thêm khoảng 162 tỷ USD trong 20 năm nếu chuyển đổi số thành công. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn ở vị trí thứ yếu trong phân chia chiếc bánh doanh thu kinh tế số. Hơn thế nữa, doanh nghiệp Việt chủ yếu ở vị trí mới nhập cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của YellowBlocks, điểm tích cực là hầu hết các doanh nghiệp trong 50 công ty doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam đều công nhận chuyển đổi số là điều cần thiết cho sức khỏe nền kinh tế quốc gia. Các nhà lãnh đạo nhóm doanh nghiệp này hiểu rằng việc bắt kịp tốc độ phát triển công nghệ với các quốc gia khác là rất cần thiết.

Ở thời điểm hiện tại, nhiều doanh nghiệp nên bắt đầu với “bước đầu tiên của chuyển đổi số” đó là nghiên cứu (Research), học hỏi (Learn) và thực hành (Practice) (RLP). Sau khi đã thành công tại bước “RLP”, họ có thể làm ra sản phẩm/dịch vụ mới và xác định được những cơ hội kinh doanh mới để tạo những giá trị khác biệt. Ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) cũng cho thấy những dấu hiệu tích cực về chuyển đổi số khi họ sử dụng Internet vạn vật (IoT) cho phép tự đưa ra quyết định trong kiểm soát chất lượng…

Tuy nhiên, ông David Lang cho biết, rất nhiều người nghĩ rằng chuyển đổi số chỉ liên quan đến công nghệ. Ví dụ, nếu một doanh nghiệp bắt đầu sử dụng công nghệ Blockchain, IoT, A.I, máy học, nền tảng đám mây thì có thể được gọi là chuyển đổi. Thực tế, chuyển đổi số còn bao gồm việc tạo ra những giá trị mới đòi hỏi doanh nghiệp phải tái cấu trúc bộ máy và cách thức vận hành. “Các doanh nghiệp nên nhớ rằng vấn đề cốt lõi của chuyển đổi số là con người. Nó không chỉ đòi hỏi các doanh nghiệp phải áp dụng công nghệ mới mà còn đòi hỏi sự thay đổi văn hóa doanh nghiệp sang cách thức kinh doanh mới để tạo ra nguồn doanh thu mới, giá trị mới cho họ”, ông David Lang tư vấn.

Nguồn: Huy Vũ – Trung Bảo/ Nhịp cầu đầu tư

 

Đánh giá nội dung

Bình luận